Màu xanh Ai Cập – sắc lam chứa đựng bề dầy văn hóa và lịch sử của nhân loại

Xanh lam là tông màu hiếm có nhất trong tự nhiên và Màu xanh Ai Cập là sắc tố nhân tạo lâu đời nhất được biết đến.
Vì sao màu xanh Ai Cập lại đặc biệt được ưa chuộng bởi tầng lớp thượng lưu và hoàng gia? Không chỉ đại diện cho sự thông thái, cũng như khí chất cao quý và sang trọng, màu lam từ lâu đã được liên kết với sự thần thánh, nhờ vào sự khó khăn trong việc chế tạo nó.
Đến tận ngày nay, sắc xanh lam vẫn được xem như một “báu vật” chứa đựng vô số những bí ẩn từ thời Ai Cập cổ đại.

Người Ai Cập dùng chất liệu đá Lapis Lazuli, với màu xanh quyến rũ  để tạo nên “tấm áo quý tộc” ( Ảnh sưu tầm)

Mặc dù sắc tố xanh đã được sử dụng từ thời xa xưa, nhưng nó không phổ biến bằng các màu như đỏ, đen, nâu hay ochre, những màu này dễ tìm hơn trong thiên nhiên và đã được sử dụng trong nghệ thuật từ rất lâu. Sắc tố xanh nổi tiếng nhất có nguồn gốc từ khoáng chất như lapis lazuli (ngọc lưu ly) rất hiếm và đắt đỏ. Các mỏ lapis lớn nhất nằm ở Hindu Kush, Afghanistan, nơi vẫn được khai thác với các phương pháp tương tự như hơn 3.000 năm trước.

Pyxis có màu lam Ai Cập nhập khẩu từ miền bắc Syria vào Italia, được sản xuất khoảng 750-700 TCN. Trưng bày tại Bảo tàng Altes ở Berlin. ( Ảnh sưu tầm)

Người Ai Cập đã khai thác những mỏ này để thu được azurite, bụi cung cấp sắc tố xanh để trang trí các tác phẩm nghệ thuật của họ. Giá của nó cao đến mức vào thời Trung Cổ, nó đắt gấp bốn lần giá vàng. Chính vì thế, vào khoảng năm 3000 trước Công Nguyên, người Ai Cập đã tìm cách chế tạo sắc tố xanh của riêng mình. Họ dần hoàn thiện kỹ thuật, bao gồm việc nghiền silica, vôi, đồng và một chất kiềm, rồi nung hỗn hợp này ở nhiệt độ 800-900 độ Celsius. Kết quả thu được được coi là sắc tố tổng hợp đầu tiên trong lịch sử. chuyên luận về kiến trúc De Architectura của kiến ​​trúc sư La Mã và kỹ sư quân sự Marcus Vitruvius Pollio vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên cho biết các thành phần nguyên liệu làm màu xanh lam Ai Cập là cát, đồng (từ một khoáng chất như azurite hay malachite) và natron (một hợp chất muối xuất hiện trong tự nhiên, bao gồm muối carbonate). Dường như trong công thức này đã có một chút nhầm lẫn về phương pháp chế tạo. Vitrivius không bình luận gì về sự cần thiết của calcium carbonate, có thể là do nguyên liệu cát trong các mẫu ông sử dụng đã có sẵn đá vôi nhưng ông không nắm được điều đó. Do vậy, phương pháp ông miêu tả không hiệu quả, và hiểu biết của người Ai Cập cổ đại đã mất mát thực sự.

Tuy nhiên, không có mẫu từ thời cổ đại đã phân tích nào được tạo ra từ thành phần chính xác này, vì tất cả đều có lượng dư silica, cùng với lượng dư CuO hoặc lượng dư CaO.[13] Điều này có thể là cố ý; sự gia tăng hàm lượng kiềm làm cho bột màu chứa nhiều thạch anh chưa phản ứng hơn nằm trong chất nền thủy tinh, do đó làm cho kết cấu cứng hơn.[12] Tuy nhiên, việc hạ thấp hàm lượng kiềm (dưới 1%) không cho hình thành thủy tinh và kết quả là bột màu lam Ai Cập mềm hơn, với độ cứng chỉ 1–2 Mohs.[13]

Ngoài cách mà các thành phần khác nhau ảnh hưởng đến kết cấu, cách gia công bột màu lam Ai Cập cũng ảnh hưởng đến kết cấu của nó, khi xét về độ thô và mịn. Sau một số thử nghiệm, Tite et al. kết luận rằng bột màu lam Ai Cập kết cấu mịn cần hai công đoạn để có được các tinh thể xen kẽ đồng đều. Đầu tiên, các thành phần được nung nóng và kết quả là tạo ra sản phẩm có kết cấu thô. Tiếp theo, nó được nghiền thành bột mịn và thêm nước. Sau đó, bột nhão (hồ) được định hình lại và nung lại ở nhiệt độ từ 850 đến 950 °C trong một giờ. Hai công đoạn này có lẽ là cần thiết để tạo ra một loại bột nhão đủ tốt để sản xuất các đồ vật nhỏ. Tuy nhiên, bột màu lam Ai Cập kết cấu thô có thể không trải qua công đoạn thứ hai. Vì nó thường được tìm thấy ở dạng phiến (trong các thời kỳ vương triều) và viên (trong thời kỳ thuộc Hy-La), hoặc là chúng có thể đang chờ để được xử lý trong công đoạn thứ hai sau đó chúng sẽ được nghiền và tạo kết cấu mịn hoặc là chúng sẽ được nghiền để sử dụng như một bột màu lam.[12]

Độ đậm nhạt của màu lam đạt được cũng liên quan đến độ thô và độ mịn của bột màu lam Ai Cập, vì nó được xác định bởi mức độ kết tụ của các tinh thể lam Ai Cập. Bột màu lam Ai Cập kết cấu thô có hình dạng tương đối dày, do các cụm tinh thể lớn bám vào thạch anh chưa phản ứng. Sự kết tụ này tạo ra sắc lam đậm là màu của bột màu lam Ai Cập thô. Ngoài ra, bột màu lam Ai Cập kết cấu mịn bao gồm các cụm nhỏ hơn xen kẽ đồng đều giữa các hạt thạch anh chưa phản ứng và có xu hướng có màu nhạt hơn.[12] Tuy nhiên, màu lam nhạt phai màu được sử dụng để mô tả màu của bột màu lam Ai Cập kết cấu mịn với một lượng lớn thủy tinh được hình thành trong thành phần của nó, che đi màu lam và tạo cho nó vẻ ngoài phai màu. Nó phụ thuộc vào mức độ chất kiềm được thêm vào hỗn hợp. Do đó, với nhiều kiềm hơn thì thủy tinh hình thành nhiều hơn và màu trông càng phai.[12] Loại màu lam Ai Cập này đặc biệt rõ ràng từ thời Vương triều thứ 18 trở đi, và có lẽ gắn liền với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thủy tinh vào thời gian này.[5]Nếu một số điều kiện nào đó không được đáp ứng, chất lượng của bột màu lam Ai Cập sản xuất ra sẽ không đảm bảo

Trong các cuộc khai quật ở Amarna, Lisht và Malkata vào đầu thế kỷ 20, Flinders Petrie đã phát hiện ra hai loại đồ đựng mà ông cho rằng đã được sử dụng trong thời cổ đại để tạo ra bột màu lam Ai Cập: đó là những cái chảo hình bát và những cái bình hình trụ (hoặc những cái sạp nung). Trong các cuộc khai quật năm 1989 tại Amarna của Barry Kemp, một lượng rất nhỏ những chiếc chảo “dính frit” này đã được phát hiện, mặc dù người ta đã tìm thấy nhiều mảnh sót lại của các ‘bánh’ màu lam Ai Cập, cho phép xác định năm loại bánh màu lam Ai Cập khác nhau và các đồ đựng gắn liền với chúng: bánh phẳng tròn lớn, bánh phẳng chữ nhật lớn, bánh hình bát, miếng hình túi nhỏ và các viên hình cầu.[17] Không có thiếc trong các mẫu đã phân tích, và các tác giả cho rằng đó là một dấu hiệu cho thấy sử dụng đồng phế liệu thay vì đồng thanh là có thể.[18]

Trong thập niên 1930, Mahmud Hamza đã khai quật một số cổ vật liên quan đến việc sản xuất bột màu lam Ai Cập tại Qantir, chẳng hạn như các bánh màu lam Ai Cập và các mảnh vỡ trong các giai đoạn sản xuất khác nhau,[19] cung cấp bằng chứng cho thấy bột màu lam Ai Cập thực sự được sản xuất tại địa điểm này. Các cuộc khai quật gần đây tại cùng một địa điểm đã phát hiện ra một ngành công nghiệp lớn dựa vào đồng, với một số nghề thủ công liên quan, cụ thể là đúc đồng, sản xuất thủy tinh đỏ, sản xuất đồ gốm faenza và bột màu lam Ai Cập.[19] Những chiếc chén nung bằng gốm với bột màu lam Ai Cập bám dính đã được tìm thấy trong các cuộc khai quật này, một lần nữa cho thấy nó đã được sản xuất tại chỗ. Những cái ‘bánh’ màu lam Ai Cập này có thể sau đó đã được đưa tới các khu vực khác trên khắp đất nước để gia công, do sự khan hiếm các thành phẩm màu lam Ai Cập có tại địa điểm này. Ví dụ, các bánh màu lam Ai Cập được tìm thấy tại Zawiyet Umm el-Rakham, một công sự thời Ramesses gần bờ biển Libya, cho thấy trên thực tế, những chiếc bánh này đã được mua bán và được gia công và định hình lại ở chỗ xa nơi sản xuất chính ra chúng.[19]

Việc sử dụng màu sắc này đã phổ biến ở nhiều nơi trong thế giới cổ đại như Lưỡng Hà, Hy Lạp, rồi chạm đến cả đế chế La Mã. Khi đế chế La Mã sụp đổ vào năm 476 sau Công nguyên, việc sử dụng màu lam Ai Cập thưa dần đi. Từ năm 800 sau Công nguyên, dường như màu sắc này đã biến mất khỏi thế giới nghệ thuật nhưng trên thực tế thì không hoàn toàn vậy. Sau này, khi được trang bị thêm hiểu biết, các nhà nghiên cứu đã có thể xác nhận ra là màu xanh lam bí ẩn đã tiếp tục được tạo ra cũng như sử dụng một số lần trong thời kỳ Trung cổ và thậm chí trong các bức họa thời kỳ Phục hung và các thời kỳ khác trong lịch sử nhân loại.

Bức họa “Virgin and Child with Female Saints” của Gérard David, 1500. (Nguồn Wikimedia Commons)

Hai ví dụ nổi bật là hai nhà thờ Công giáo La Mã được nghiên cứu vào năm 2001 và 2009. Một là, thánh đường Công giáo Latinh Saint Clement ở Rome, Italia, nơi màu xanh huyền thoại này xuất hiện trong The Ascension of Christ, một bức bích họa được sáng tác vào khoảng năm 850 sau Công nguyên theo phong cách pha trộn giữa phong cách La Mã, Gothic và Byzantine. Phẩm chất kém cỏi của màu khiến người ta cho rằng nó không thể bắt nguồn từ nguồn cung La Mã mà có vẻ như được sản xuất cùng thời gian làm bích họa.

Nơi thứ hai là nhà thờ San Saba cũng ở thành Rome với một bức tranh tường thế kỷ thứ 8, sử dụng một màu pha trộn giữa xanh lam Ai Cập với đá lapis lazuli. Thậm chí đây có thể là lần xuất hiện đầu tiên của đá lapis lazuli trong hội họa châu Âu. Bức họa đặc biệt này đã tái hiện sự hòa quyện của kỹ thuật phương Đông (lapis từ Afghanistan) và truyền thống nghệ thuật địa phương, ngay ở thời điểm màu xanh Ai Cập hầu như đã hoàn toàn vắng bóng. Các nhà khoa học đề xuất nguyên nhân dẫn đến việc trộn màu này là đá lapis lazuli quá đắt đỏ, mặt khác có thể cho thấy sự đứt quãng của màu xanh lam Ai Cập và người ta đã dần dần tìm cách thay thế nó bằng đá lapis lazuli, và cả hai loại màu này có thể cùng tồn tại trong cùng một thời kỳ.

Người Ai Cập cổ đại rất coi trọng màu xanh lam và say mê thể hiện nó trên nhiều đồ vật và dưới nhiều hình thức khác nhau. Họ cũng mong muốn mô phỏng màu của những viên đá bán quý như ngọc lam và ngọc lưu ly, những loại ngọc này được đánh giá cao vì độ quý hiếm và các sắc thái xanh lam thuần khiết. Việc sử dụng các khoáng vật tự nhiên như azurit để có được các sắc thái xanh lam này là không thực tế, vì những khoáng vật này rất hiếm và khó gia công. Do đó, để có thể có được số lượng lớn chất màu xanh lam nhằm đáp ứng nhu cầu, người Ai Cập phải tự sản xuất ra bột màu này. Họ đã phát triển nhiều chủng loại chất màu khác nhau, bao gồm cả những gì ngày nay được gọi là bột màu lam Ai Cập, màu đầu tiên vào thời gian phát triển chúng. Thành tựu này có được nhờ sự tiến bộ của Ai Cập khi trở thành một xã hội nông nghiệp định cư. Nền văn minh ổn định và lâu đời này đã khuyến khích sự phát triển của lực lượng lao động gián tiếp, bao gồm các giáo sĩ và giới thần quyền Ai Cập. Các vị vua Ai Cập là những người bảo trợ cho nghệ thuật, và điều đó chính là động lực cho sự tiến bộ của công nghệ sản xuất chất màu.

Bằng chứng sớm nhất về việc sử dụng bột màu lam Ai Cập, được nhà Ai Cập học Lorelei H. Corcoran thuộc Đại học Memphis xác định, là trên một chiếc bát bằng thạch cao tuyết hoa có niên đại cuối thời kỳ tiền triều đại hoặc Naqada III (khoảng năm 3250 TCN), được khai quật tại Hierakonpolis và hiện nay trưng bày tại Bảo tang Mỹ thuật Boston.[7] Vào thời Trung Vương quốc (2050-1652 TCN), nó tiếp tục được sử dụng như một chất màu trong trang trí lăng mộ, bích họa, đồ đạc trong nhà và tượng, và đến thời kỳ Tân Vương quốc (1570-1070 TCN) nó bắt đầu được sử dụng rộng rãi hơn trong việc sản xuất nhiều đồ vật.

Người Ai Cập đã sử dụng sắc tố này để tô vẽ gỗ, giấy papyrus và vải, nhuộm men, chạm khắc vào các đồ vật. Đặc biệt, nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực tang lễ trên mặt nạ, tượng và tranh trong các ngôi mộ, vì họ tin rằng màu xanh bảo vệ người chết khỏi những điều xấu trong thế giới bên kia. Ví dụ cổ nhất của sắc tố này có từ khoảng 5.000 năm trước và được tìm thấy trên một bức họa trong một ngôi mộ thuộc thời kỳ trị vì của Ka-Sen – vị Pharaoh cuối cùng của Vương triều Thứ Nhất Ai Cập.

Minh họa về màu xanh Ai Cập và ứng dụng nó trong nghệ thuật cổ đại ( Ảnh sưu tầm)

 

Màu lam trong một tác phẩm nghệ thuật cổ đại ( Ảnh sưu tầm)

Đến thời kỳ Tân Vương quốc, màu xanh này trở nên cực kỳ phổ biến. Không chỉ là “tấm áo quý tộc” của các tạo hình tượng, bích họa trong lăng mộ và quan tài. Mà còn cực kỳ được ưa chuộng trong những sản phẩm gốm sứ bấy giờ..

Đĩa nhỏ có chân, bằng gốm faenza màu xanh lam, Tân Vương quốc (1400-1325 TCN). ( Ảnh sưu tầm)

Việc sử dụng nó vẫn tiếp tục trong suốt thời kỳ Hậu nguyên và thời kỳ Hy Lạp-La Mã, chỉ biến mất vào thế kỷ thứ 4 khi bí mật về việc làm ra nó bị mất.[8]

Không có thông tin thành văn nào tồn tại trong các văn bản Ai Cập cổ đại về việc sản xuất bột màu lam Ai Cập thời cổ đại, và nó chỉ được Vitruvius đề cập lần đầu tiên trong văn học La Mã vào thế kỷ 1 TCN.[9] Ông gọi nó là coeruleum và mô tả trong tác phẩm De architectura cách thức làm ra nó. Cuối cùng, chỉ vào đầu thế kỷ 19 người ta mới quan tâm đến việc tìm hiểu thêm về sản xuất bột màu lam Ai Cập khi nó được Humphry Davy điều tra vào năm 1815,[11] và những người khác như W. T. Russell và F. Fouqué quan tâm.

Sự xuất hiện ngoài Ai Cập của bột màu lam

Bột màu lam Ai Cập được tìm thấy ở Tây Á vào giữa thiên niên kỷ 3 TCN dưới dạng các đồ tạo tác nhỏ và đồ khảm, nhưng không phải dưới dạng bột màu.[5] Nó được tìm thấy ở khu vực Địa Trung Hải vào cuối thời đại đồ đồng giữa, và dấu vết của thiếc được tìm thấy trong thành phần của nó cho thấy việc sử dụng phế liệu đồng thanh thay vì quặng đồng làm nguồn đồng.[5] Trong thời kỳ La Mã, việc sử dụng bột màu lam Ai Cập rất phổ biến, như được minh họa bằng một cái chậu chứa bột màu chưa sử dụng, được tìm thấy vào năm 1814 ở Pompeii. Nó cũng được tìm thấy dưới dạng bột màu chưa sử dụng trong hầm mộ của một số họa sĩ. Người Etrusca cũng sử dụng nó trong các bức bích họa của họ. Các chất liệu màu Hán tử (漢紫) và Hán lam (漢藍) có liên quan cũng từng được cho là có nguồn gốc từ Ai Cập.

Ngoài ra, có những khảo cứu cho thấy có sự trộn thêm đồng vào mực carbon, để lại dấu ấn mực xanh trên nhiều bản thảo giấy cói ở thành phố Pathyris và thư viện đền thờ Tebtunis.

Tuy nhiên, cho dù lan toả ảnh hưởng đến tận Địa Trung Hải, phẩm xanh độc đáo này cũng dần biến mất khỏi đời sống sau khi đế quốc La Mã sụp đổ. Bước vào thời kỳ Trung Cổ, xanh dương vẫn tiếp tục được săn lùng, đặc biệt là ở châu Âu, trong bối cảnh các bản thảo viết tay đang rất thịnh hành.

Lúc này, cái tên nổi bật nhất thuộc về tornasol, nhờ sắc xanh khác lạ, cùng khả năng lưu màu cực kỳ lâu. Màu xanh tía có nguồn gốc từ cây cỏ đem lại nét đặc trưng cho bất cứ thứ gì chúng nhuộm màu, thường được các nghệ nhân Trung Cổ sử dụng cho trang trí các bản thảo cùng bức họa tôn giáo. Nhờ sự lành tính, nên tornasol còn được tận dụng để làm đậm màu lớp vỏ ngoài phô mai xứ sở Hà Lan hay pha chế một số loại rượu mạnh.

Màu xanh sau khi được chiết xuất thành công sẽ ở dạng lỏng, rồi được ngâm với vải lanh để trở thành những “cỗ xe vải” vận chuyển đến các xưởng thủ công trên khắp châu Âu. Thế nhưng, sau khi “ông tổ nghề in” Johannes Gutenberg sáng chế ra kỹ thuật in ấn bằng chữ kim loại có thể dịch chuyển cùng đế chế sách in, các bản thảo dần mất đi vị thế trong xã hội, khiến màu xanh tornasol dần dần biến mất. Ngoài ra, phong cách trang trí Trung Cổ trở nên lỗi thời, màu xanh chàm lên ngôi trở thành nguồn nguyên liệu mực in chính. Sự xuất hiện của màu nhân tạo đã chính thức chấm hết cho kỷ nguyên xanh tornasol, khiến toàn bộ công thức liên quan đến nguyên liệu và kỹ thuật tách màu chìm vào quên lãng từ thế kỷ 19.

Xanh Ai Cập hay tornasol rất được ưa chuộng cho công đoạn “trang điểm” các bản thảo. ( Ảnh sưu tầm)

Quá trình chuyển ngữ một số tên nguyên liệu hay hướng dẫn tinh chế còn gặp nhiều bất đồng bởi chưa có sự thống nhất trong các nhóm nghiên cứu, hay tồn tại nhiều dị bản về loài thực vật đứng phía sau sắc xanh tía dị thường. Sự thật chỉ được hé lộ bởi một vài linh mục sinh sống ở vùng Gallargues-le-Montueux (Pháp).

Công thức tạo nên xanh tornasol liên quan đến một loại thực vật có tên gọi chrozophora tinctoria (thuộc họ thầu dầu). Chrozophora tinctoria được cho chỉ tồn tại ở vùng Monsaraz thuộc phía Nam Bồ Đào Nha, mọc dại ven đường với những quả mọng nhỏ cỡ hạt lạc. Nhiều quan điểm tin rằng người Trung Cổ đã tận dụng từ lá, vỏ ngoài đến quả của loại cây này để tách được một dung dịch có màu xanh tía độc đáo. Các thành phần này sẽ được thu hoạch trong tháng 8 hoặc 9 hàng năm, riêng vỏ quả sau khi tách sẽ được phơi khô hoàn toàn trong những ngày nắng lớn. Những quan sát ban đầu cho thấy thịt quả có màu xanh lạ mắt, đem ép kiệt tạo nên một dung dịch xanh tím bám rất chắc trên bề mặt giấy hoặc vải.

Dựa vào hướng dẫn chi tiết trong bản thảo cổ, người Trung Cổ cho thấy sự khéo léo khi tách thịt quả sạch sẽ và không làm vỡ các hạt nhỏ để tránh làm loãng chất màu. Kết quả phân tích trong phòng thí nghiệm cho biết một trong những thành phần chính của màu xanh tornasol là anthocyanins, thường xuất hiện trong các nhóm quả mọng. Tuy nhiên, hạt của loại quả chrozophora tinctoria chứa một lượng lớn polysaccharides, có thể làm giảm độ tinh khiết của anthocyanins khi phản ứng với anthocyanins để tạo nên một số chất với độ nhớt dính cao. Điều này lý giải nhiều biểu tượng “cẩn thận”, hay “giữ nguyên hạt” xuất hiện trong công thức xanh tornasol của người cổ đại.

Chưa hết, nhiều bản thảo còn hướng dẫn cách “vắt” màu xanh từ lớp vỏ quả được phơi khô, mà nhờ đó cho sắc tornasol “không thể sao chép”. Vì thế, nhóm nghiên cứu nghi ngờ màu xanh còn được tạo nên nhờ sự sản sinh chrozophoridin, nhóm chất mang màu đặc trưng của cây chrozophora tinctoria. Họ cũng tiếp tục khám phá ra sự cầu kỳ trong bảo quản màu được chính những thợ thủ công lành nghề nhất thời Trung Cổ sáng tạo và lưu truyền suốt nhiều thế kỷ. Người xưa thường dùng vải thấm đẫm phẩm xanh, phơi khô để giữ màu, và sẽ “kích hoạt” sắc màu tươi tắn cho các lần sử dụng sau bằng cách làm ướt lại tấm vải.

Quả của loại cây chrozophora tinctoria dùng để tách được một dung dịch có màu xanh tía độc đáo. ( Ảnh sưu tầm)

Ngoài Ai Cập, nó cũng được tìm thấy ở Cận Đông, miền đông Địa Trung Hải và trong phạm vi Đế quốc La Mã. Người ta vẫn chưa rõ là sự tồn tại của bột màu này ở những nơi khác là kết quả của phát minh song song hay là bằng chứng về sự phổ biến công nghệ từ Ai Cập đến những khu vực đó.

Màu lam trong hoàng gia và giới thượng lưu

Màu xanh và giới quý tộc có nhiều mối liên hệ mật thiết để sắc màu này bước lên ngôi vương của quyền thế. Đầu tiên, phải kể đến “blue blood” (máu xanh). Là một thuật ngữ được sử dụng từ năm 1809 để ám chỉ dòng dõi hoàng gia cao quý.

Màu xanh lam sáng từng tô điểm cho bức chân dung nữ hoàng Ai Cập Nefertiti. Nguồn news.artnet

Ngoài ra, theo lịch sử Châu Âu, trang phục màu xanh lam cũng được coi là biểu tượng gắn liền với giới thượng lưu. Bởi chúng có cái giá không hề rẻ để thường dân có thể sở hữu. Thuốc nhuộm xanh vốn được các thợ thủ công truyền thống chiết xuất từ cây tùng lam. Nhưng quá trình này tiêu tốn nhiều thời gian và công sức. Dẫn đến chi phí đắt đỏ để có được những bộ trang phục màu xanh lam. Và tất nhiên, chỉ giới nhà giàu mới đủ khả năng chi trả. Và cũng vui lòng tiêu tốn bấy nhiêu của cải để phô trương đẳng cấp của mình.

Chân dung Công chúa Sophie, Electress of Hanover (1630-1714). (Ảnh Gerrit van Honthorst)

Đối với hoàng gia Pháp. Mỗi hoàng tử được sinh ra đều được trao một dải băng Order of the Saint-Louis màu xanh lam. Như ngầm khẳng định thân phận cao quý. Và họ chỉ được phép đeo chúng trong những sự kiện đặc biệt hoặc tranh chân dung.

Chân dung Hoàng tử Pháp – Louis Ferdinand de France, con trai vua Louis XV, năm 1750. (Ảnh Birmingham Museum and Art Gallery)

Sắc xanh Ai Cập trong thế giới hiện đại

Sắc xanh lam còn được tái hiện rõ nét trong phim ảnh của giới quý tộc và hoàng thất như:

Marie Antoinette (2006)

Ảnh sưu tầm

 

Elizabeth: The Golden Age (2007)

Ảnh sưu tầm

 

Bridgerton (2020)

Ảnh sưu tầm

Sắc xanh lam còn được các thành viên Hoàng gia của xứ sở sương mù ưu ái sử dụng. Không ít lần công chúng bắt gặp Nữ hoàng Anh trong những bản phối monochrome sắc xanh lam tinh tế và thời thượng. Theo thống kê, đây là màu sắc góp mặt nhiều nhất trong tổng số lần bà từng xuất hiện trước công chúng. Trang phục màu lam chiếm giữ một phần ba số trang phục trong tủ đồ của Nữ hoàng.

Nữ hoàng Anh Elizabeth II với trang phục màu lam ( Ảnh sưu tầm)

Theo dấu của màu lam

Cố Thủ tướng Anh William Gladstone từng nói, sắc xanh dương hẳn có một lai lịch rất khác thường trong lịch sử phát triển của nhân loại. Xuyên suốt thời cổ đại, những bản thảo của Hy Lạp, kho tàng văn học hay kinh thánh từ Trung Quốc đến Do Thái đều chưa từng đề cập đến từ chỉ màu này. Vài bản chép tay gọi tên sắc xanh dương chỉ được tìm thấy trong những tàn tích của nền văn minh Ai Cập cổ đại, để rồi từ đó hé mở vô số những bí ẩn về màu xanh đầy quyến rũ, trở thành cảm hứng nghiên cứu của khoa học hiện đại.

 

Bột màu lam Ai Cập ( Ảnh sưu tầm)

Khi mối quan tâm của khoa học về Ai Cập được các khám phá khảo cổ dưới thời Napoleon khơi dậy trở lại, và trong năm 1814, nghiên cứu lại được thúc đẩy  bằng bí ẩn về “màu xanh lam nhạt” ở Pompeii với nỗ lực của nhà hóa học Anh Humphrey Davy. Cuối cùng vào những năm 1880, thành phần hóa học của màu này đã được tìm ra và qua đó, tìm lại được cách thức sản xuất.

Trên thực tế, mãi cho tới cuối thế kỷ 19, khoa học mới nhận thấy màu xanh do người Ai Cập cổ đại tạo nên phát ra tia hồng ngoại khi được chiếu ánh sáng đỏ trong một khoảng thời gian dài, hoàn toàn không thể quan sát bằng mắt thường nhưng sở hữu nhiều khả năng thú vị. Một vài một sự phát triển đầy thú vị đó đối với các nhà hóa học và nghệ sĩ như vào năm 2009, màu xanh Ai Cập đã được chứng tỏ là có khả năng phát quang ở vùng cận hồng ngoại. Nhờ vậy có thể dễ dàng dò được nó ngay cả khi mắt thường không nhìn thấy. Do đặc tính này mà vào năm 2011, các nhà khoa học tìm thấy sự pha trộn màu xanh lam Ai Cập và đá lapis lazuli trong một bức họa St Margaret vào thế kỷ 16 do họa sĩ Ý Ortolano Ferrarese vẽ bởi sự phát quang của màu vô cùng mạnh. Bảo tàng Anh đã sử dụng ngay kỹ thuật này để tìm ra manh mối về việc The Elgin Marbles, bộ sưu tập các tác phẩm điêu khắc đá cẩm thạch Hy Lạp cổ đại được thực hiện dưới sự giám sát của kiến ​​trúc sư và nhà điêu khắc Phidias và các trợ lý của ông, từng được tô màu, trong đó có màu xanh huyền thoại này.

Mặt khác, kỹ thuật này còn giúp chúng ta nhìn thấy một sự thật khác, đó là màu xanh Ai cập đã được nhiều nghệ sĩ sử dụng ngay cả khi người ta nghĩ là năng lực tổng hợp nó đã bị mất mát theo thời gian. Rõ ràng, họa sĩ Ortolano Ferrarese hay các đồng nghiệp khác của mình bằng cách nào đó đã có màu xanh Ai cập trong tay. Giải được câu đố này không chỉ là vấn đề của các nhà sử học nghệ thuật mà còn là thách thức với các nhà hóa học.

Tương lai công nghệ của màu xanh lam Ai Cập

Sau nhiều nghìn năm thì màu xanh lam Ai Cập đã được tái hiện theo nhiều cách mà những nhà sáng chế cổ đại có thể chưa bao giờ mơ tới. Các nhà hóa học nhận ra màu xanh lam Ai Cập có thể có những ứng dụng quan trọng ngoài nghệ thuật như việc ứng dụng vào các lĩnh vực viễn thông, công nghệ laser và mực bảo mật.[23][24][25]

Một trong số đó chính là quá trình hình thành những cấu trúc nano siêu nhỏ, với độ dày khoảng 1 đến 100nm khi màu xanh này tan hoàn toàn trong nước ấm và để lắng trong vài ngày. Khi ấy, màu xanh cổ đại trở thành “miền đất hứa” tạo nên chất nhuộm sinh học trong vi sinh học và mô học, cho phép các nhà khoa học giám sát sự di chuyển của các cấu trúc nano được thêm vào mô thực – động vật để phỏng đoán cơ chế phát triển của nhiều sinh vật sống.

Các bức xạ tương tự hồng ngoại từ màu xanh Ai Cập có thể xuyên qua các mô tốt hơn nhiều dạng sóng khác, kích thích các hợp chất nhạy sáng sản sinh fluorophore (hợp chất hóa học huỳnh quang có thể phát lại ánh sáng khi bị kích thích do nguồn sáng), nhờ vậy gia tăng khả năng quan sát các cấu trúc siêu nhỏ. Đây là cơ hội lý tưởng thúc đẩy công nghệ chẩn đoán hình ảnh cho nghiên cứu y sinh của tương lai. Vơi tính chất phát quang trong thời gian dài và chiều sâu xâm nhập mạnh trong các mô người của bức xạ điện từ hơn cả tia cực tím hoặc ánh sáng khả kiến, nếu được sử dụng như một tác nhân hình ảnh, màu này có thể làm tăng thêm khả năng có thể có được những hình ảnh y sinh có độ phân giải cao hơn và chi tiết hơn. Màu xanh lam Ai cập cũng có thể là một thay thế khả thi cho các hợp chất họ Lantan đắt đỏ mà hiện nay vẫn được dùng để giúp mực in bền hơn.

Độc đáo hơn, xuất hiện ý tưởng táo bạo “phủ xanh” nhà bằng màu xanh Ai Cập, bởi nó mang theo đặc tính giúp các khối kiến trúc giảm hấp thu năng lượng, đồng thời tăng cường hoạt động một số loại tế bào quang điện trong pin mặt trời nhờ khả năng phát tán hồng ngoại cực mạnh. chất màu lam Ai Cập có thể được sử dụng trong các vật liệu xây dựng như mái phản xạ được thiết kế để làm mát mái và tường nhà ở vùng khí hậu nắng nóng, và phủ màu kính để cải thiện hiệu suất của pin mặt trời.[26][27]

Giấc mơ này cuốn hút giới nghệ sĩ và kiến trúc sư, đến mức họ phải thừa nhận rằng màu xanh dương dường như đã vượt qua giới hạn chỉ gói gọn trên giấy – điều mà ít có màu sắc nào làm được…

Rõ ràng là tương lai của màu xanh lam Ai Cập có thể tươi sáng theo nhiều cách khác nhau. Vào thời điểm khởi thủy của màu, ít ai nghĩ rằng màu xanh lam sáng từng tô điểm cho bức chân dung nữ hoàng Ai Cập Nefertiti hàng ngàn năm trước, giờ đây có thể hữu dụng trong cuộc sống đến vậy

Khám phá thành công những bí mật của người xưa, khoa học tin rằng hoàn toàn có thể tạo nên tornasol 2.0 thời hiện đại với công thức màu chính xác nhất, có đầy đủ đặc tính như thời Trung Cổ. Nguồn gốc hữu cơ đến từ một loài cây độc nhất vô nhị sẽ tạo nên chất liệu bảo vệ những sắc màu đẹp đẽ của quá khứ, gìn giữ tác phẩm nghệ thuật và sự sáng tạo của người xưa, để cho thế hệ tương lai chiêm ngưỡng.

Biên tập: Kim Thúy


Klook.com


Bài viết liên quan

Dịch vụ vận chuyển thú cưng của Vietjet – Sky Pet – “ Thú cưng ơi, bay thôi”

Là một trong các Các dịch vụ Hỗ trợ đặc biệt của Vietjet Air, dịch vụ vận chuyển thú cưng (động vật cảnh) dành cho hành khách có nhu cầu đi du lịch cùng thú cưng (chó, mèo), cho phép bạn mang thú cưng lên khoang hành khách; mang đến...

Chi tiết
Vietjet Air hỗ trợ đặc biệt trẻ em với dịch vụ Sky Kids – “Trẻ tự tin, bay một mình”

Vietjet Air hỗ trợ đặc biệt trẻ em với dịch vụ Sky Kids – “Trẻ tự tin, bay một mình”, là một trong các Các dịch vụ Hỗ trợ đặc biệt của Vietjet Air Vietjet hân hạnh cung cấp dịch vụ đồng hành cùng trẻ từ 6 tuổi đến dưới...

Chi tiết
Các dịch vụ Hỗ trợ đặc biệt của Vietjet Air

Hãng hàng không Vietjet  được xếp hạng hàng không an toàn cao nhất thế giới mức 7*, với 120+ đường bay nội địa và quốc tế, 400+ chuyến bay mỗi ngày, 6000+ nhân viên thân thiện tận tình. Vietjet Air cung cấp hàng loạt các dịch vụ đặc biệt dành...

Chi tiết
Hướng dẫn ‘Cộng điểm bổ sung’ khi bay cùng Vietjet

Kết thân cùng Vietjet đã lâu, vi vu muôn nơi nhưng quên tích SkyPoint đổi thưởng? Chỉ cần chọn ‘Cộng điểm bổ sung’ trong ứng dụng SkyJoy, điểm SkyPoint tích được từ các chuyến đã bay từ 24/12/2022 sẽ được cộng vào tài khoản của bạn! Thao tác đơn giản,...

Chi tiết
Du lịch Đồi chè Long Cốc, Phú Thọ – khám phá vẻ đẹp miền trung du phía Bắc Việt Nam

Được xem là một điểm du lịch mới mẻ của tỉnh Phú Thọ, thiên nhiên ban tặng Long Cốc một trong những khu đồi chè đẹp nhất Việt Nam. Long Cốc với hàng trăm quả đồi lớn nhỏ có thổ nhưỡng cùng khí hậu ôn hòa tốt nhất cho cây...

Chi tiết
“Mùa vàng” Tây Bắc – Ruộng bậc thang Tây Bắc vào mùa lúa chín

Mỗi mùa trong năm, mảnh đất đại ngàn Tây Bắc đều khoác lên mình một vẻ đẹp rất riêng. Một trong những thời điểm Tây Bắc đẹp nhất là khi “mùa vàng” đến.  Khung cảnh này vừa hùng vĩ, lại vừa nên thơ vô cùng, đó là khi những thửa...

Chi tiết
Hướng Dẫn Đặt Vé Máy Bay Đến Phú Quốc, Việt Nam

Phú Quốc, hòn đảo xinh đẹp thuộc tỉnh Kiên Giang, Việt Nam, được mệnh danh là “đảo ngọc” nhờ vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời cùng bãi biển trong xanh và rừng nguyên sinh hoang sơ. Để đến đây, phương tiện thuận tiện và nhanh chóng nhất là máy bay....

Chi tiết
Hướng dẫn đặt vé máy bay đến Đà Lạt, Việt Nam

Gotolink sẽ bật mí cho các bạn cách đặt vé Máy Bay Đến Đà Lạt, Việt Nam Đà Lạt là điểm đến nổi tiếng tại Việt Nam, được mệnh danh là “thành phố ngàn hoa” với khí hậu mát mẻ quanh năm và khung cảnh thiên nhiên lãng mạn. Nếu...

Chi tiết
Mẹo đặt vé máy bay Tết 2025 (Tết Ất Tỵ) để tiết kiệm và tránh rủi ro

Tết Nguyên Đán là thời điểm cao điểm nhất trong năm khi nhu cầu đi lại tăng cao vé máy bay trở nên khan hiếm và không còn nhiều lựa chọn khung giờ, đặc biệt là từ các thành phố lớn về quê ăn Tết hoặc du lịch. Dưới đây...

Chi tiết
Danh sách sân bay dân dụng tại Việt Nam có khai thác của các hãng hàng không Việt Nam

Hiện tại, Việt Nam có tổng cộng 22 sân bay dân dụng đang hoạt động, bao gồm cả sân bay quốc tế và nội địa. Các sân bay này phục vụ cho các chuyến bay của các hãng hàng không trong nước như Vietnam Airlines, VietJet Air, Bamboo Airways, Vietravel...

Chi tiết
Hướng dẫn đặt vé máy bay từ TP. Hồ Chí Minh đến Thanh Hóa

Các hãng hàng không khai thác Vietnam Airlines: Phù hợp với dịch vụ tốt, hành lý miễn cước lớn. VietJet Air: Lựa chọn tiết kiệm, nhiều chuyến bay trong ngày. Bamboo Airways: Dịch vụ thân thiện, kết hợp giữa chi phí hợp lý và trải nghiệm tốt. Các bước đặt...

Chi tiết
Hướng dẫn đặt vé máy bay Hà Nội – Đà Nẵng

Lựa chọn hãng hàng không để đặt vé máy bay Các hãng hàng không khai thác chặng Hà Nội – Đà Nẵng: Vietnam Airlines: Phù hợp với khách cần dịch vụ cao cấp, nhiều hành lý ký gửi. VietJet Air và Bamboo Airways: Lựa chọn tiết kiệm với nhiều chương...

Chi tiết
Hướng dẫn đặt vé máy bay từ Hà Nội đi Sài Gòn

Việc đặt vé máy bay ngày càng trở nên thuận tiện nhờ các nền tảng trực tuyến và hệ thống hỗ trợ từ các hãng hàng không. Dưới đây là hướng dẫn chi tiết giúp bạn đặt vé máy bay một cách nhanh chóng và dễ dàng từ Hà Nội...

Chi tiết
Những địa điểm Glamping và Camping gần Hà Nội

Glamping và Camping đều được thực hiện tại những địa điểm khá gần gũi với thiên nhiên – nơi người tham gia có cơ hội trở về với thiên nhiên cũng như cảm nhận sự tĩnh lặng trong một không gian xanh mát, phóng khoáng của núi rừng, biển cả,...

Chi tiết
Tìm hiểu về Glamping và Glamping ở Việt Nam hiện nay

Glamping – là từ ghép của glamorous và camping, mô tả một phong cách cắm trại với các tiện nghi cao cấp, lãng mạn giữa thiên nhiên. Trong một số trường hợp, Glamping có các dịch vụ kiểu khu nghỉ mát thường không liên quan đến cắm trại “truyền thống”....

Chi tiết
Huy chương Olympic mùa hè Paris 2024 với những giá trị đáng ghi nhớ.

Sau nhiều ngày thi đấu hấp dẫn, Olympic mùa hè Paris 2024 đã chính thức khép lại. Ba tuần trước khi tổng thống Pháp khánh thành làng Olympic, Ủy ban tổ chức Thế Vận Hội Paris đã công bố hình ảnh các huy chương Olympic mùa hè 2024. Điểm nhấn...

Chi tiết
“Con đường lãng mạn nhất thế giới”, – Via dell’Amore, di sản thế giới ở Cinque Terre, Italia

Nằm ở Cinque Terre, Liguria, Italia, và được các tạp chí du lịch gọi bằng tên gọi “Con đường lãng mạn nhất thế giới“, Via dell’Amore trải dài bên vách đá cheo leo nhìn ra vùng biển Liguria, nối hai ngôi làng đẹp như tranh vẽ Riomaggiore và Manarola thuộc...

Chi tiết
Độc đáo Lễ vía Quan Công ở Hội An – một di sản văn hóa phi vật thể quốc gia của Việt Nam

Lễ vía Quan Thánh Đế Quân diễn ra tại Quan Công Miếu, nhằm ngày 24/6 âm lịch hàng năm.  Lễ hội này, là một trong những hoạt động văn hóa quan trọng của địa phương. Di tích Quan Công miếu nằm tại số 24 đường Trần Phú, thành phố Hội An,...

Chi tiết
Top 10 hộ chiếu quyền lực nhất thế giới năm 2024 tính đến thời điểm hiện tại

Hộ chiếu Singapore vừa được vinh danh là loại giấy tờ thông hành quyền lực nhất thế giới trong bảng xếp hạng hàng quý về những hộ chiếu có ảnh hưởng quốc tế lớn nhất. Việt nam đứng thứ 88 và có thể di chuyển đến 55 quốc gia miễn...

Chi tiết
Hải Vân Quan mở cửa miễn phí từ tháng 8

Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Sở Văn hóa Thể thao TP Đà Nẵng đã thống nhất mở cửa Hải Vân Quan, miễn phí cho du khách, từ ngày 1/8. Ông Phan Văn Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế,...

Chi tiết
Hoa hồng cổ Sapa – vẻ đẹp khó cưỡng từ xứ Tây Bắc

Đến Sapa chắc hẳn bạn sẽ thấy bị hút hồn bởi những bông hoa hồng xinh đẹp đến thế. Đó là hoa hồng cổ Sapa. Ngắm những bông hồng cổ Sapa là một điều không nên bỏ lỡ khi bạn ghé thăm thị trấn sương mù đáng yêu này. Người...

Chi tiết
Hồ tảo hồng đẹp quyến rũ ở thành phố Bảo Lộc – Địa điểm bạn nên đến khi du lịch Lâm Đồng

Nằm tại phường B’lao, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Hồ tảo hồng cách trung tâm thành phố Bảo Lộc 20km về hướng thác Dambri, hồ tảo hồng kề ngay bên đồi chè Tâm Châu nổi tiếng. Hồ tảo hồng kề ngay bên đồi chè Tâm Châu nổi tiếng...

Chi tiết
Bạn nên biết: Các tuyến xe buýt từ Hà Nội đến sân bay Nội Bài và ngược lại

Có nhiều chuyến xe buýt từ trung tâm Hà Nội tới sân bay Nội Bài và ngược lại. Thời gian xe hoạt động thường từ 5h00 tới 23h hàng ngày. Thời gian trung bình đi lại từ trung tâm vào sân bay là 60 phút, giá vé: từ 7.000VND đến...

Chi tiết